Kiểm soát xã hội Trật_tự_xã_hội

Kiểm soát xã hội là sự bố trí các chuẩn mực, các giá trị cùng những chế tài để ép buộc việc thực hiện chúng. Sự kiểm soát sẽ làm cho hành vi của các cá nhân, các nhóm vào các khuôn mẫu đã được xã hội thừa nhận là đúng, cần phải làm theo. Kiểm soát xã hội, sẽ dùng các chế tài tiêu cực đẩy các hành vi lệch lạc vào khuôn phép hay vào một trật tự.

Kiểm soát xã hội có thể được thực hiện bởi các thiết chế xã hội như gia đình, tôn giáo, chính trị, kinh tế, giáo dục,... thông qua chức năng kiểm soát của mình các cá nhân phải tuân thủ theo chuẩn mực giá trị xã hội, các quy định hạn chế đối với hành vi.

Chức năng của kiểm soát xã hội là tạo ra những điều kiện cho sự bền vững, đồng thời duy trì sự ổn định và trật tự xã hội, song song với việc tạo ra những thay đổi hợp lý và tích cực. Thể hiện những thay đổi này nằm trong khuôn khổ được phép và không ảnh hưởng đến độ bền vững, tính ổn định của hệ thống xã hội.

Các cá nhân tiếp nhận được cơ chế kiểm soát xã hội thông qua quá trình xã hội hóa, khi cá nhân thu nhận những giá trị và chuẩn mực xã hội. Trong các quá trình này, các cá nhân được cơ hội "dạy" cách hành động, cách suy nghĩ như thế nào cho đúng và chuẩn. Với hệ thống giá trị và chuẩn mực thu nhận được, các cá nhân có thể thực hiện tự kiểm soát, tức là đối chiếu hành vi của mình với các giá trị chuẩn mực đó để điều chỉnh. Nhờ đó, các cá nhân có thể thực hiện tốt những sự mong đợi với các vai trò.

Kiểm soát xã hội có mặt ở khắp mọi nơi trong đời sống văn hóa xã hội và luôn tác động đến sự lựa chọn hành vi của các cá nhân và các nhóm. Đối với chúng ta có hành vi lệch lạc đến kiểm soát xã hội sẽ ngăn chặn các hành vi này, phê phán loại bỏ nó đưa những người đó trở lại khuôn phép, trở lại một trật tự đã có. Với từng mức độ lệch lạc cụ thể, kiểm soát xã hội sẽ dùng các công cụ khác nhau. Ba công cụ chính của kiểm soát xã hội được Talcott Parsons (1902-1979) đưa ra, được sử dụng chủ yếu trong dạng kiểm soát chính thức (formal control), như sau:

  1. Sự cô lập hoàn toàn;
  2. Sự hạn chế giao tiếp, quản chế;
  3. Sự cải tạo, phục hồi.

Sự kiểm soát xã hội chính thức được thực hiện bởi những tổ chức với các quy định, luật lệ. Những quy định, luật lệ này ép buộc mọi tổ chức và cá nhân phải tuân theo chúng. Những dạng tổ chức này là những tổ chức công quyền về hành pháp và tư pháp (cảnh sát, tòa án, viện công tố,...). Và cũng có thể là những tổ chức biệt lập như bệnh viện tâm thần, cơ sở cai kiện,... Các thành viên của các tổ chức đó khi thực thi vai trò của mình phải tuân thủ chặt chẽ quy định của luật pháp. Các thành viên của các tổ chức kiểm soát xã hội tạo thành một bộ phận đáng kể trong lực lượng lao động xã hội (thẩm phán, hội thẩm, kiểm sát viên,...).

Trong các cơ cấu không chính thức, các nhóm sơ cấp, sự điều chỉnh hành vi vào khuôn phép thường được thực hiện bởi sự kiểm soát không chính thức (informal control) - Đó là một phản ứng xã hội không công khai và phổ biến trong các nhóm. Crocbie đã đưa ra bốn dạng kiểm soát không chính thức như sau:

  1. Lợi ích xã hội về dân chủ, cơ hội thăng tiến;
  2. Sự trừng phạt;
  3. Sự thuyết phục;
  4. Xác định lại chuẩn mực.